Trạng Nguyên Nương Tử

Chương 6



Nếu là một nữ nhi, ta hy vọng nó sẽ thừa hưởng dung mạo và trí tuệ của phu quân.

Sau khi đỗ cử nhân, lời nịnh bợ từ khắp nơi gần như làm thủng cả màng nhĩ của ta.

Ai nấy đều khen ta may mắn, gả được người như Tùng Trúc.

Nhưng Tùng Trúc chẳng ít lần nói: “Lúc ta bị xem là khắc thê, thi cử không đỗ, may có phu nhân không chê, nếu không làm sao có ta ngày hôm nay.”

Chẳng bao lâu, cả huyện đều biết ta giúp phu quân chuyển vận.

Các phụ nhân không có việc gì lại đến gần sờ chạm ta, những cô gái họ hàng trước khi xuất giá còn nhờ ta chải đầu, hy vọng có thể gặp được mối nhân duyên ân ái như ta và Tùng Trúc.

Tùng Trúc càng lớn càng chững chạc, thẳng thắn, như viên ngọc đẹp được năm tháng mài dũa thành nhu hòa.

Ta thường ngơ ngẩn tự hỏi: người phu quân tốt như vậy, thật sự là của ta Chu Giao Giao sao?

Năm xưa người chấm cho chàng đỗ tú tài là Lâm lão tiên sinh, nay tuổi cao, đã cáo lão về hưu.

Yến tiệc tạ ân cử nhân của Tùng Trúc theo lệ cũng gửi thiệp mời ông.

Không ngờ ông thật sự đến.

Không chỉ vậy, sau buổi tiệc, ông còn nán lại một mình, trao cho Tùng Trúc một phong thư.

17

“Quốc Tử Giám Tế Tửu thuở trước từng cùng lão phu đồng môn, sau lại cùng nhau dạy dỗ quận chúa và quận vương của Trưởng công chúa. Con cầm phong thư này đến gặp ông ấy, tất sẽ nể mặt lão phu mà cho con nhập học.”

Tùng Trúc vô cùng sửng sốt lẫn bất ngờ: “Học trò có đức hạnh gì mà được tiên sinh ưu ái đến thế?”

Quốc Tử Giám là học phủ tối cao của Đại Sở, tú tài trong thiên hạ nhiều như sao, đâu phải ai cũng có cơ hội đặt chân vào.

Lão Lâm thở dài: “Lão phu từng xem bài thi năm xưa của con, văn chương xuất chúng! Là do bệnh tình của lão phu liên lụy con suốt bao năm, trong lòng hổ thẹn khôn nguôi…”

Tùng Trúc cúi sâu thi lễ: “Mọi sự đều là ý trời. Nếu chẳng có những năm tháng rèn giũa tâm tính ấy, e rằng học trò cũng chỉ là thiếu niên ngạo mạn, cứng quá ắt gãy.”

Lão Lâm vỗ vai chàng đầy tán thưởng: “Nói hay lắm! Khổ luyện và gian truân chính là chỗ dựa cho con đường làm quan sau này.”

“Chỉ mong con vàng bảng đề danh, báo quốc an dân, đừng phụ tài hoa một đời.”

Ý của lão là muốn chàng sớm lên đường đến kinh thành.

Một là, càng về phương Bắc, trời càng lạnh, chậm trễ e đường xá khó đi.

Hai là, Quốc Tử Giám tụ hội nhân tài bốn phương, đi sớm học sớm, lợi không ít.

Ba là, kinh thành nước sâu sóng lớn, đi sớm tìm hiểu, ba năm sau dự khoa cử cũng có phần chuẩn bị.

Xong Tùng Trúc lại muốn đợi ta sinh con xong mới khởi hành.

Ta gấp đến độ không dằn được: “Sao có thể được? Con thơ không chịu nổi xóc nảy, nếu đợi đến lúc tròn nửa tuổi mới lên đường, sẽ phí mất bao nhiêu thời gian?”

“Thân thể ta vẫn ổn, tuyệt đối không thể làm chậm trễ tiền đồ phu quân.”

Lẽ ra nên ở lại quê nhà chờ tin chàng, nhưng nếu vậy, sao biết được hiểm nguy chàng sẽ gặp?

Làm sao có thể yên tâm?

Ta đi khám ba vị đại phu, ai cũng bảo thân thể ta khỏe mạnh, chỉ cần chú ý thì sẽ không sao.

Vậy nên Tùng Trúc mới chịu đồng ý.

Chàng chọn một tiểu tử nhanh nhẹn, biết đánh xe, lại thật thà đáng tin trong tộc làm tiểu đồng.

Đầu tháng Chín, khi lá phong bắt đầu nhuộm đỏ, cả nhà ta cũng lên đường.

18

Cả làng kéo nhau ra tiễn.

Mẫu thân nắm tay ta dặn dò: “Ruộng nhà con sao lại chia nửa cho người khác, không thể để nhà mình trồng hết hay sao?”

Ngưu Nhi cung kính hành lễ: “Trưởng tỷ lên đường thuận buồm xuôi gió, chớ lo cho nhà cửa. Đệ sẽ ở nhà phụng dưỡng phụ mẫu và huynh trưởng.”

Đứa nhỏ mới bảy tám tuổi mà đã ra dáng học giả.

Tùng Trúc và nhạc mẫu ta đã cải tạo lại xe ngựa, Hắc Tử đánh xe cũng vững vàng.

Đi tuy chậm, nhưng không xóc nảy.

Ra khỏi châu, càng đi về phía Bắc, thời tiết càng lạnh.

Cuối tháng Chín, trời đã rơi tuyết nhỏ.

Cây cối trụi hết lá, nơi ánh dương không chiếu tới còn đọng băng giá chưa tan.

Cuối tháng Mười, rốt cuộc cũng đến chân kinh thành.

Chúng ta đến nơi vào lúc chạng vạng.

Ta với bụng bầu lùm lùm được Tùng Trúc đỡ xuống xe.

Ánh tà dương vàng rực phủ lên tường thành hùng vĩ, cả kinh thành như một con mãnh thú khổng lồ nằm phục trong tầm mắt.

Không ngờ đời này của ta, Chu Kiều Kiều, còn có ngày được mở rộng tầm nhìn đến vậy.

Lão Lâm có một tòa cổ trạch ở Kinh đô, nằm trên phố Chu Tước.

Chỉ có lão bộc trông coi.

Hẳn lão đã sớm gửi thư dặn dò, khi chúng ta đến nơi, lão bộc đã chuẩn bị chu toàn.

Hôm sau, Tùng Trúc mang thư giới thiệu đến Quốc Tử Giám, quả nhiên thuận lợi nhập học.

Cả nhà được lão bộc dẫn đi dạo khắp kinh đô mấy ngày trời.

Thật không thể không cảm khái trước sự phồn hoa nơi đây.

Cụ già bán kẹo hồ lô trên phố mặc áo vải đẹp không kém gì lễ phục của lý chính quê ta.

Mỹ phẩm thịnh hành ở châu ta ở đây bị xếp vào hàng lỗi mốt hai năm trước.

Một xấp vải ở tiệm tơ lụa có giá đủ để một nhà quê sống no đủ cả năm.

Người đi đường cũng không thể tùy tiện, ai ai cũng có thể là quý nhân.

Một cỗ xe ngựa bình thường cũng có thể chở thân thích hoàng gia.

Tùng Trúc vốn là tú tài hiếm có ở quê, đến nơi này cũng chỉ như đóa hoa nhỏ, đẹp đấy, nhưng không nổi bật.

Vàng ngọc ta không dám nhìn lâu, chỉ duy có một lần gặp chiếc trâm bạc khắc hoa quế tầng tầng lớp lớp, mê mẩn không thôi.

Nhìn bảng giá: ba lượng bạc.

Ta hoảng hốt quay đầu bỏ đi.

Ai ngờ tối đến, Tùng Trúc từ trong tay áo lấy ra cây trâm đó, cài lên tóc ta: “Ban ngày thấy nàng ngắm lâu, ánh mắt quả nhiên tinh tường. Cây trâm này hợp với nàng lắm.”

19

“Đắt thế, chàng đúng là lãng phí!”

“Nếu đã đắt thì càng phải dùng nhiều. Đeo trăm lần, ngàn lần, chia ra chẳng còn bao nhiêu.”

Nghe cũng có lý.

“Vậy chàng có mua gì cho nương chưa?”

Nhạc mẫu ta góa bụa từ sớm, một tay nuôi lớn Tùng Trúc, chịu không ít khổ cực. Không thể để bà nghĩ con trai có vợ liền quên mẫu thân .

Tùng Trúc ôm ta vào lòng: “Ta thấy hết cả rồi, chẳng phải nàng đã lén mua cho nương rồi sao? Lúc đó ta sẽ giả bộ mượn hoa dâng Phật…”

“Nàng dùng hết tiền riêng mua trâm rồi, còn vét sạch túi ta, đêm nay không phải nên bồi thường ta một chút sao…”

Người đâu mà chẳng nghiêm túc chút nào.

Đèn hồng chăn ấm, một đêm yên lành.

Vì mang thai, Tùng Trúc không cho ta làm việc nặng.

Một hôm ta đến Quốc Tử Giám đón chàng, từ xa thấy chàng cầm mấy tờ giấy, đưa cho một công tử áo gấm.

Công tử kia mặt mày ngạo mạn, nói một câu.

Gia nô bên cạnh lập tức bước lên, đưa cho Tùng Trúc một miếng bạc vụn.

Tùng Trúc không kiêu không nịnh, khom người hành lễ.

Ngẩng đầu lên, ánh mắt liền chạm phải ta.

Chàng khựng lại.

Đợi công tử kia đi rồi, chàng vội tới lau nước mắt ta: “Sao lại khóc? Ta chỉ giúp hắn làm vài bài thơ, để hắn không mất mặt trong tiệc thế gia, kiếm được một hai lượng bạc, nhẹ nhàng thôi.”

“Không làm gì khuất nhục hay uốn gối nịnh nọt cả.”

“Nhưng tài hoa phu quân, đâu nên dùng nơi này. Thiếp sợ… sợ làm tổn khí tiết của chàng.”

Cũng sợ người ngoài chê cười, khinh thường.

“Khí tiết là ở lòng ta. Ta giữ lòng, thì không mất.”

“Kinh thành rộng lớn, không dễ sống. Ta không muốn thấy nàng và mẫu thân phải chịu khổ.”

“Ta là nam nhân, dĩ nhiên phải để hai người sống đủ đầy.”

Quả thật gần đây không có nguồn thu mà vật giá kinh thành lại đắt đỏ, ta và nhạc mẫu luôn lo toan, chẳng như ở châu nhà tiêu xài thoải mái.

Không ngờ chàng chăm học mà vẫn để ý đến điều đó.

Về nhà, ta cùng nhạc mẫu bàn bạc, vẫn nên kiếm kế sinh nhai.

Trước kia ta lo, nếu tiếp tục buôn bán sẽ ảnh hưởng thanh danh Tùng Trúc.

Nhưng giờ chàng còn đi giúp người múa bút thành văn, vừa mất thời gian, lại dễ bị xem thường.

Tùng Trúc dĩ nhiên không đồng ý.

Ta nhẹ giọng hỏi: “Chẳng lẽ phu quân sợ người ta dị nghị ta và mẫu thân buôn bán?”

20

“Ta chỉ sợ hai người vất vả.”

Nhạc mẫu vỗ bàn: “Ta làm quen rồi, ngồi không mới là khó chịu.”

Việc buôn bán ở kinh thành muôn hình vạn trạng, vàng bạc ngọc lụa không có vốn thì chỉ có thể chọn việc đầu tư ít mà có đặc sắc.

Canh thịt dê của nhạc mẫu ta nấu rất ngon, mỗi năm nấu dịp Tết là cả làng thơm lừng.

Quán canh thịt dê ở kinh không nhiều, ngon lại càng hiếm.

Một tháng sau, quán canh thịt dê của mẹ chồng khai trương.

Chỉ có sáu bàn ghế nhỏ.

Lúc đầu cũng thường thôi.

Chúng ta còn dè dặt giấu giếm, ai ngờ Tùng Trúc lại đường hoàng dẫn bạn học về, giới thiệu ta và nhạc mẫu.

Hôm đó ta chưa kịp chải chuốt, mặt bị lửa bếp hun đỏ bừng, trán lấm tấm mồ hôi.

Hẳn chẳng phải dáng vẻ gì đẹp đẽ.

Thật đúng là tức chết người.

Nhưng ánh mắt Tùng Trúc nhìn ta lại đầy rạng rỡ: “Thê tử ta theo ta bôn ba thi cử, không sợ gian khổ, là phúc phận đời ta.”

Các bạn học cũng gọi một tiếng “anh tức”, không hề có ý khinh rẻ.

Cho thấy, đa phần sĩ tử vẫn là người tốt.

Có lẽ nhờ danh tiếng lan xa, việc buôn bán dần khấm khá.

Đến bữa là không có chỗ ngồi, có người cầm hộp đến mua mang về.

Có người ngồi xổm trước cửa ăn húp sùm sụp ngon lành.

Thậm chí có quý nhân hào phóng ăn xong một chén, đưa hẳn một lượng bạc, không cần thối lại.

Đúng là người vừa đẹp vừa giàu.

Chương trước Chương tiếp
Loading...