Bánh của Tạ lang

Chương 4



14

Chuyện làm ăn là sở trường của ta. Ta không nói với Tạ Nam hay Tạ Trân Tạ Châu rằng trong tay chẳng còn bao nhiêu bạc.

Chỉ bảo họ loan tin khắp nơi: “Tiệm thêu mới mở trong thành có bà chủ ngông cuồng, tuyên bố rằng ai có tay nghề thêu hơn được cô ấy, cô ấy sẽ dâng 300 lượng bạc!”

Tạ Nam trợn tròn mắt như cái chuông đồng: “A tỷ, nhà mình từ bao giờ có nhiều bạc như thế?”

“Nghe lời A tỷ đi.” Câu này của Tạ Đông đúng kiểu vạn năm bất biến.

Hai đứa Tạ Trân Tạ Châu cười khúc khích: “Nhị ca sợ gì chứ? A tỷ thêu đẹp lắm mà.”

Còn ta thì cứ tỏ vẻ thần bí.

Con người mà, ai mà chẳng có lòng hiếu kỳ? Kẻ mạnh miệng khoác lác, chẳng phải ai cũng muốn “vả mặt” xem sao?

Chẳng mấy chốc, cả thành đều biết đến "bà chủ không biết trời cao đất dày" của tiệm thêu mới.

Người đến xem đông như trẩy hội. Mấy món thêu sẵn của ta và hai muội bị mua sạch. Tiền thuê cửa hàng thu về rất nhanh.

Tạ Nam tròn mắt giơ ngón cái: “A tỷ lợi hại thật!”

“Chuyện nhỏ thôi mà.” Ta khiêm tốn... mà hất cằm lên cao.

Trước kia ở miền Bắc, ta từng nghe không ít mánh lới của thương buôn. Chiêu trò kiểu này, ta còn nắm cả rổ.

“Nhưng đã hết hàng thêu sẵn rồi, mình có thêu suốt đêm cũng không đủ hàng mà bán.” Tạ Trân lo lắng nói.

Tạ Châu thì tuy chững chạc hơn, nhưng cũng tròn mắt nhìn ta.

Tạ Đông nhìn cái khung thêu, lúng túng: “Hay... để ta thử?”

Tay huynh ấy cầm kim thì hơi... run. Nhưng xoa vai giúp ta thì rất giỏi.

Ta bảo Tạ Trân Tạ Châu cứ làm như cũ, còn ta thì ra ngoài lượn mấy vòng, rồi quay về vùi đầu vào khung thêu.

Người đến xem vẫn đông như kiến. Thấy trong tiệm toàn đồ trưng bày, có kẻ mỉa mai ta khoác lác.

Ta mỉm cười: “Trong thành chẳng ai dám đọ tay thêu với ta, thêu nhiều để làm gì?”

Lời lan nhanh. Chẳng mấy chốc, có thêu nữ thật sự đến tìm ta thách đấu.

Tay nghề vững, ta chẳng sợ ai cả. Đánh bại hết người này đến người khác, danh tiếng nhanh chóng vang xa.

Người đến mua đồ thêu thì nườm nượp, có cả phú hộ, quan viên, quý phu nhân.

Nhưng sản phẩm của ta… chỉ bán giới hạn. Có tiền chưa chắc mua được.

Ban đầu, huynh muội nhà họ Tạ còn sợ cách của ta phản tác dụng, nhưng khi thấy sản phẩm của ta bị thổi giá lên “nghìn vàng khó cầu”, các tiểu thư phu nhân tranh nhau đưa bạc đặt làm riêng, ai nấy đều há hốc miệng.

Ta cũng chẳng buồn giải thích. Chỉ nhún vai: “Từ xưa tới nay, hàng quý luôn khan hiếm.”

Rất nhanh, quản sự tiệm thêu lớn nhất thành tìm tới khiêu chiến.

Ta nhận lời: “Nghe nói hai tháng nữa là sinh nhật Thái phu nhân nhà quan huyện. Chúng ta mỗi bên dâng một bức thêu, mời lão phu nhân đích thân đánh giá, thế nào?”

Hắn gật đầu đồng ý ngay.

15

Ta chọn dùng kỹ thuật thêu miền Bắc.

Khác với lối thêu cầu kỳ tinh mỹ ở phương Nam. Thêu miền Bắc thiên về khí khái hào sảng, nét bút mạnh mẽ dứt khoát.

Chuyện ta và Xảo Tú Phường lập chiến thư thách đấu, chẳng mấy chốc đã lan khắp thành, xôn xao rần rần.

Chưa đến mấy ngày, thiệp mời dự thọ yến của Thái phu nhân đã được đưa đến tận tay ta.

Tạ Đông căng thẳng đến mức đi vòng vòng trong phòng, chân không ngừng bước, miệng lẩm bẩm: “A Ngọc, muội đừng sợ. Thắng thì tốt, mà thua cũng chẳng sao cả… Quan huyện sẽ không gây khó dễ cho muội chứ? Lỡ… lỡ mà ngài ấy muốn đánh muội mấy trượng, muội cứ chỉ ta, bảo là chủ ý của ta. Da ta dày, thịt ta thô, chịu đòn cũng chẳng sao.”

Ta nghe đến đó thì bật cười thành tiếng. Cuối cùng là ai đang căng thẳng đây?

“Được, ta nhớ rồi. Nếu quan huyện muốn đánh ta, ta sẽ để ông ấy đánh huynh.”

“Đúng đúng đúng! Muội không chịu nổi mấy cảnh khổ đó đâu!” Huynh ấy gật đầu hớn hở, như thể bị đánh thật cũng chẳng thấy đau vậy.

16

Ta chuẩn bị một bức bình phong thêu hình tiên ông chúc thọ. Kích thước lớn, thời gian lại gấp, dù có Tạ Trân Tạ Châu giúp đỡ, ta vẫn phải thêu đến hoa mắt chóng mặt, tận nửa đêm mới chịu ngơi tay.

Dạo gần đây, Tạ Đông cũng rất bận. Ngày nào cũng đi từ sáng sớm đến tận khuya, chẳng biết là đang làm gì.

Mãi đến một hôm, khi ta đã mệt đến mức không duỗi nổi vai, thì huynh ấy mang vào một chén canh nghi ngút hương thơm.

“Muội nếm thử đi.”

Tạ Đông múc một chén nhỏ, cẩn thận bưng đến trước mặt ta. Màu canh trong vắt, mùi thơm nhẹ nhàng. Uống thử một ngụm, vị ngọt mát lan tỏa, như thấm tận tim gan phế phủ.

Ta không kìm được, uống liền hai chén nhỏ.

Tạ Đông nở nụ cười mãn nguyện.

Ta trêu Tạ Đông: “Huynh học nấu riêng vì ta đấy à?”

“Không có.” Huynh ấy lúng búng phản bác, giọng trầm ồm.

Ta hít hít mũi, làm bộ ấm ức: “Ta cứ tưởng Tạ đại ca thương ta, nào ngờ là ta nghĩ nhiều. Cũng đúng, một kẻ đáng thương chẳng ai đoái hoài như ta, sao xứng để huynh quan tâm chứ…”

Nói xong, ta đẩy chén canh ra.

Huynh ấy hoảng hốt, vội giữ lấy tay ta: “Không phải vậy…”

“Vậy là sao?” Ta nhìn xuống bàn tay bị huynh ấy đang nắm lấy.

Tạ Đông như bị lửa đốt, vội vàng rụt tay lại: “A Ngọc, ta… ta…”

“Huynh không thích ta à?” Ta nhìn thẳng vào mắt huynh, hỏi rất nghiêm túc. “Huynh học nấu canh ngọt, chẳng lẽ là để nấu cho cô nương khác ăn?”

“Ta mệt rồi.” Ta cất lời, lạnh nhạt, rồi đứng dậy đuổi người.

Tạ Đông à Tạ Đông, huynh đúng là khúc gỗ sống… Đến bao giờ mới chịu khai tâm đây?

17

Từ hôm đó, ta bắt đầu cố tình tránh mặt Tạ Đông. Huynh ở bếp, ta ra tiệm thêu. Huynh ấy ủ rượu, ta gọi Tạ Trân Tạ Châu pha trà. Kể cả lúc đi thăm Tạ Nam, ta cũng đi riêng.

Tạ Nam vừa về nhà đã lén hỏi: “A tỷ, tỷ và đại ca cãi nhau rồi hả?”

“Không có.”

Ta cầm kim, khéo léo thêu mấy mũi lên mắt của Tiên ông. Vài đường kim đơn giản, bức tranh như sống lại.

“A tỷ! Tiên ông cười kìa!” Tạ Nam kinh ngạc kêu lên.

Ánh mắt là nơi truyền thần. Chỉ cần điểm đúng, linh hồn của bức tranh liền sống dậy.

“Chúc thọ mà, phải tươi vui chứ.”

Thêu xong Tiên ông, ta còn phải thêu thêm năm tiểu đồng, tượng trưng cho ngũ phúc lâm môn, thời gian thì gấp gáp, cần phải nhanh hơn.

Tạ Nam lại bắt đầu cằn nhằn: “A tỷ đừng bỏ cuộc với đại ca. Huynh ấy hiền lành quá, lúc nào cũng sợ làm phiền tỷ, cho nên mới...”

“Lo mà học đi.” Ta ngắt lời, “Chuyện của ta với huynh ấy, đệ khỏi cần lo. Đợi khi đệ thi đỗ trạng nguyên, trở thành đại ca của huynh ấy rồi, chuyện gì cũng dễ nói.”

Nỗi lo của Tạ Đông, chỉ cần có tiền là giải quyết được. Mà trạng nguyên thì đâu phải dễ đậu, không cố gắng thì mong gì?

Tối hôm đó, Tạ Đông đến tìm ta. Ta đang thêu tiểu đồng, cố ý không ngẩng đầu: “Có chuyện gì?”

“A Ngọc…” Huynh ấy do dự. “Tạ Nam… không kể gì với muội chứ?”

“Huynh thấy nó nên kể gì với muội?” Ta vẫn không ngẩng đầu, mũi kim lướt dưới ánh nến lấp lánh, như vẽ ra hàn quang.

Huynh ấy gãi đầu, cười khờ: “Không… không có gì là tốt.”

Người này đúng là…

Ta hừ nhẹ: “Vai ta mỏi quá.”

“Hả?” Tạ Đông lúng túng tay chân, không biết để đâu: “Vậy… vậy để ta bóp cho muội?”

Ta ngoắc tay ra hiệu: “Lại gần chút.”

Đôi tay to từng bổ khúc gỗ to như cây cột, vậy mà giờ cẩn thận như vuốt lông mèo. Bàn tay ấy rơi nhẹ lên vai ta, dò dẫm tìm lực, rồi từ tốn xoa bóp từng chút một.

Ta lim dim hưởng thụ. Sau một ngày vùi đầu vào thêu thùa, mỏi mệt tiêu tan, thân thể cũng nhẹ nhàng hơn nhiều.

Chợt ngoài cửa có tiếng cười khúc khích. Ta nghiêng đầu nhìn ra…

Tạ Nam dắt theo Tạ Trân Tạ Châu đang rình ngoài cửa. Thấy ta phát hiện, cả đám liền cười hì hì bỏ chạy: “Bọn muội chỉ đi ngang qua thôi! Ngang qua thôi mà!”

Một lũ ranh con. Ta buồn cười lắc đầu.

Trong gương đồng, mặt Tạ Đông đã đỏ rần như ráng chiều.

“Tạ đại ca.” Ta gọi nhẹ, nhìn bóng huynh phản chiếu trong gương: “Còn nhớ lời hứa đêm đó của huynh không?”

Huynh ấy khựng lại, sau đó chậm rãi gật đầu.

“Suốt đời không quên.”

Vậy là đủ rồi.

Chương trước Chương tiếp
Loading...