Ba Năm Đổi Một Câu Quý Danh

Chương 3



7

Nhưng nghĩ lại, năm đó tôi vội vàng chia tay rồi bỏ đi, số tiền trả lại cho anh chưa đến hai vạn.

Tôi… vẫn còn nợ anh.

Hôm đó sau buổi phỏng vấn, tôi xin nghỉ một ngày.

Nghe nói hôm sau anh có quay lại, nói là đến tìm chiếc vòng cổ con mèo nhỏ bị mất.

Nhưng tìm một vòng quanh, chẳng thấy gì cả.

Chị Trương đích thân ra phòng tiếp khách xin lỗi anh.

Anh còn hỏi thêm vài câu về chế độ nghỉ của đài truyền hình, không rõ vì sao.

Ngày này qua ngày khác, tôi lặp đi lặp lại công việc hậu trường nhàm chán, chờ đợi một ngày có thể được chính thức nhận vào làm.

Thật ra tôi cũng không rõ liệu bản thân có cơ hội đó hay không.

Đợt này có sáu thực tập sinh cùng vào, mà cuối cùng chỉ chọn giữ lại hai người.

Tôi từng nghỉ học khi đang học năm ba, đến bằng tốt nghiệp còn chưa lấy được.

Cơ hội… có lẽ là rất mong manh.

Hôm ấy sau giờ làm, tôi vẫn như mọi khi, tranh thủ ngồi tại vị trí làm việc mượn tạm, lướt thật nhanh qua các bản tin nóng gần đây để học hỏi.

Nhà tôi không có máy tính.

Tôi chỉ có thể mượn máy của một tiền bối quan hệ tốt để tranh thủ học.

Cũng may bình thường tôi làm việc chăm chỉ, được lãnh đạo đánh giá tốt.

Chính trưởng phòng còn nhờ anh bảo vệ giữ cửa lại cho tôi sau giờ.

Tôi cũng không dám ngồi lâu, tranh thủ xem qua vài bài rồi tắt máy tính chuẩn bị về.

Nhưng vừa đứng dậy, đã nghe thấy từ phía văn phòng vọng lại tiếng khóc nho nhỏ.

Bình thường, con gái mà nghe thấy tiếng khóc trong một tòa nhà tối om, e là sợ phát khiếp.

Nhưng tôi thì không.

Bà tôi tuổi cao, tai không còn thính như trước.

Những ngày mưa lớn thường kèm theo tiếng sấm chớp, lúc nhỏ tôi rất sợ.

Cứ mỗi lần như thế, tôi lại chạy đi tìm bà.

Bà ngủ sớm.

Tôi phải lay lay tay mãi mới đánh thức được bà dậy.

Tôi nói:

“Con sợ sấm sét.”

Bà liền ngồi cạnh tôi, vừa phe phẩy chiếc quạt mo, vừa dịu dàng vỗ về:

“Miêu Miêu đừng sợ, có bà ở đây.”

Về sau, khi biết bà ngoại sợ tôi tỉnh giấc nên đã thức trắng cả đêm ngồi trông tôi, từ đó trở đi, mỗi khi trời mưa… dù sấm có to đến đâu, tôi cũng không còn sợ nữa.

Có lẽ vì từ nhỏ đã tự nhủ phải mạnh mẽ, nên thật ra tôi là đứa gan cũng không nhỏ.

Khi đẩy cửa văn phòng ra, tôi không ngờ lại nhìn thấy chị Trương.

Chị ngẩng đầu lên, thấy tôi thì rõ ràng cũng giật mình:

“Hà Miêu?”

Tôi từng nghe đồng nghiệp nói mấy hôm nay chị ấy cãi nhau dữ dội với anh rể, chắc vì chuyện đó mà trốn vào đây khóc một mình.

Tôi không phải kiểu giỏi ăn nói, càng không biết cách an ủi người khác, chỉ có thể bắt chước mấy đồng nghiệp mà khuyên vài câu:

“Chị Trương à, vợ chồng nào mà chẳng cãi nhau. Em nghe nói anh rể trước cũng từng làm ở đài mình, hai người vốn rất tình cảm mà. Đừng vì giận quá nhất thời mà hơn thua với nhau, rồi ai cũng mệt.”

Chị Trương nghe tôi nói thì liên tục lắc đầu.

Tôi biết những lời đó chẳng có bao nhiêu sức thuyết phục, chắc chị cũng chẳng nghe lọt được bao nhiêu.

Quả nhiên, tôi không giỏi dỗ dành người khác.

“Tiểu Hà… chị thật sự không biết phải nói chuyện này với ai, khó mở miệng lắm em à.”

Tôi biết chị định tâm sự điều gì đó, bèn kéo ghế ngồi xuống cạnh chị, thầm nghĩ một lát nữa dù chị nói gì, mình cũng sẽ cố hết sức khuyên giải.

Thế nhưng lời chị vừa thốt ra đã khiến tôi không kịp phản ứng.

“Chồng chị… trước đây không như vậy. Từ khi dính vào cờ bạc… anh ấy như biến thành người khác. Vì sao lại như thế hả em?”

Cờ bạc.

Hai chữ đó… nghe sao mà quen thuộc quá.

Tôi đã rất lâu không gặp người đó rồi.

“Không phải biến thành người khác đâu chị.

Người cờ bạc… vốn dĩ không phải là người.”

Chị Trương ngẩng đầu kinh ngạc nhìn tôi.

Còn tôi — những lời định bụng sẽ nói để an ủi chị — lại chẳng thốt ra được câu nào.

8

Trên đường về nhà, tôi đứng dầm gió lạnh bên đường gần một tiếng đồng hồ mới khiến bản thân tỉnh táo lại.

Tôi ép mình nghĩ đến những việc phải làm ngày mai, những lịch trình công việc cần sắp xếp.

Chỉ như thế, mới có thể tạm thời đè nén những ký ức khiến tôi nghẹt thở.

Chung cư tôi thuê đã rất cũ, không ai quản lý, rác thải lâu ngày không dọn khiến không khí nồng nặc mùi hôi thối.

Nhưng đây là nơi gần công ty nhất, và cũng là chỗ rẻ nhất mà tôi có thể tìm được.

Cư dân ở đây chủ yếu là những người thất nghiệp hoặc sống dựa vào cha mẹ. Gần như không có xe cộ ra vào.

Vì thế tôi lập tức chú ý đến chiếc xe sang đang đỗ ngay dưới tòa nhà tôi ở — trông hoàn toàn không hợp với nơi này.

Thịnh Thành Chu đứng dựa vào cửa xe, giữa hai ngón tay là điếu thuốc, ánh lửa lập lòe.

Câu nói đầy mỉa mai của anh hôm trước — “Hà tiểu thư đúng là có trí nhớ tốt thật” — vẫn còn vang vọng bên tai tôi.

Tôi biết rõ, anh cố tình. Không hề có chuyện mất trí nhớ. Anh nói như vậy là có chủ ý.

Anh quay đầu lại, nhìn thấy tôi, rồi lại quay đi, rít một hơi thuốc, sau đó dập tắt đầu lọc, nhả ra một vòng khói đặc sệt.

“Tan làm muộn vậy?”

Giọng anh khàn khàn.

Tôi liếc nhìn dưới đất, ít nhất có bốn, năm đầu lọc thuốc lá.

Không biết anh đứng đây bao lâu rồi.

Tôi sắp xếp lại cảm xúc, nặn ra một nụ cười lịch sự:

“Chào Tổng giám đốc Thịnh, trùng hợp quá.”

Anh chẳng buồn giữ thể diện nữa, lạnh lùng hừ một tiếng:

“Tháo cái mặt nạ đó xuống rồi nói chuyện với tôi.”

Tôi… trước đây vốn không như thế này.

Có lẽ từ bảy, tám tuổi tôi đã không còn cảm thấy mình là một đứa trẻ.

Những bạn bè ríu rít xung quanh chỉ khiến tôi thấy phiền.

Tôi chưa từng trải qua tuổi dậy thì đúng nghĩa.

Những cảm xúc rung động non nớt của thiếu niên, trong mắt tôi chỉ là lãng phí thời gian và năng lượng.

Trong mắt mọi người, từ ngữ người ta dùng để miêu tả tôi nhiều nhất chính là: lạnh lùng.

Tôi không quan tâm.

Ngày ngày chỉ biết cắm đầu học, mục tiêu duy nhất là giành học bổng, ra trường tìm việc ổn định, để bà ngoại có thể sống tốt hơn.

Tôi chưa từng biết lấy lòng ai, càng không quen nịnh bợ.

Tôi cứ nghĩ chỉ cần sống tốt cuộc đời của mình là đủ. Nhưng sự thật không phải vậy.

Bước chân vào xã hội, mỗi ngày trôi qua đều là va vấp.

Dần dà theo năm tháng, tôi học được cách đeo mặt nạ mà sống.

Thịnh Thành Chu bảo tôi tháo mặt nạ xuống.

Nhưng tôi giờ đâu còn tư cách ấy nữa.

Muốn kiếm tiền để sống sót, thì phải học cách giả vờ cười vui.

9

“Lên lầu đi.”

Giọng Thịnh Thành Chu không cho phép phản kháng.

Thế là anh bước vào căn nhà chỉ khoảng ba mươi mét vuông, chất đầy đồ lặt vặt của tôi — có lẽ còn chẳng bằng ổ mèo nhà anh.

Anh không hề khách sáo, vào nhà liền tìm chỗ ngồi xuống.

Tôi cầm ấm nước lên hỏi:

“Uống nước lọc hay trà?”

“Nước lọc.”

“Ồ.”

“Lúc đó nếu tôi không nói vậy, em định giả vờ mãi sao?”

Một câu không đầu không đuôi của Thịnh Thành Chu khiến tôi không hiểu gì:

“Gì cơ?”

Anh đưa tay xoa trán, giọng không vui:

“Chuyến tàu hỏa đó.”

À.

Nếu anh không nhắc, có lẽ tôi vẫn sẽ giả vờ như chưa từng gặp.

Ba năm trước, sau khi chia tay với anh, vì sợ người đàn ông kia tìm tới, tôi đã vội vàng nghỉ học, chuyển đến một thành phố xa lạ.

Lăn lộn suốt một năm, đến đúng ngày giỗ bà ngoại, tôi mới lấy can đảm trở về.

Không ngờ lại gặp Thịnh Thành Chu trên chuyến tàu đó.

Tôi vẫn như trước, đeo khẩu trang to, kéo thấp vành mũ, thu mình trong ghế cạnh cửa sổ, giả vờ ngủ.

Không biết từ lúc nào, bên cạnh có người ngồi xuống.

Tôi định đứng dậy đi vệ sinh, vừa định lên tiếng nhờ nhường đường…

Vừa nhìn thấy gương mặt đó, tôi lập tức khựng lại, hoảng hốt ngậm miệng, rồi ngồi xuống như chưa từng có ý định rời đi.

Chỉ vì sợ bị anh phát hiện, tôi đã nhịn suốt cả đoạn đường, đến nhà vệ sinh cũng không dám đi.

Tôi giả vờ chuyên tâm rót nước, hỏi như thể vô tình:

“Sao anh lại đi chuyến đó?”

Với tính cách của Thịnh Thành Chu, loại tàu đông đúc, ồn ào như tàu xanh ấy, chắc chắn anh sẽ không bao giờ ngồi.

“Em nghĩ sao?”

Tôi le lưỡi:

“Không biết.”

Anh có vẻ hơi tức:

“Anh đi đòi nợ.”

Tôi liếc nhìn anh.

Không lẽ là đòi nợ tôi?

Sau đó Thịnh Thành Chu im lặng.

Tôi cũng chẳng biết nói gì.

Hai người ngồi đó, lặng thinh suốt nửa tiếng đồng hồ.

Đến khi ấm nước gần cạn, Thịnh Thành Chu vẫn chưa có dấu hiệu rời đi.

Tôi bèn đứng dậy, định đun thêm một ấm nữa.

Bất ngờ anh lên tiếng:

“Hôm đó em xin nghỉ… là để trốn anh à?”

Chương trước Chương tiếp
Loading...