Ta, máu nóng phương cương, có một phu quân hồ ly

Chương 3



6

Cứ thế, ta vin cớ đưa yêu cầu, lừa được Tống Thất trong nửa năm để hôn ta năm lần. Tin tốt là, dường như sắp phát triển thành tình bằng hữu trên đôi môi. Tin xấu là, vẫn chưa có lần thứ hai được cùng Tống Thất.

Một ngày nọ, ta lại thành công lừa chàng. Ta ôm lấy eo chàng, cả người dựa trong ngực. Trong lúc hôn, ta cảm thấy đầu ngón tay chàng chạm vào áo bên hông ta, dường như muốn ôm lấy ta. Thế nhưng đôi tay ấy lại nâng lên rồi hạ xuống, cứ lặp đi lặp lại. Cuối cùng, chàng vẫn buông xuống.

Hôn xong, Tống Thất nghiêng đầu đi, nói: “Đến đây thôi. Đã hòa ly rồi, thì nên dứt khoát sạch sẽ.”

Tay ta khựng lại, buông bàn tay áo trắng của chàng: “Ồ.”

Chẳng có gì to tát, thiên hạ này nam tử tốt đẹp còn nhiều. Từ sau đó, ta không còn hôn Tống Thất nữa, cũng chẳng mang gà quay đến thăm.

Sang năm tháng Giêng, phụ hoàng chẳng còn hứng thú với chính sự, liền truyền ngôi cho ta. Ta chính thức đăng cơ xưng đế.

Hoa Yên được phong làm Liêu vương, đất phong ở Liêu Đông. Nhưng Hoa Yên chẳng chịu đi đến đất phong, trái lại thường xuyên lui tới phủ Tống Thất.

Một lần ta xuất cung hóng gió, vừa khéo đi ngang phủ chàng, thấy Hoa Yên từ trong đi ra, vội vã rời đi. Tiện đó, ta bước vào. Người hầu phủ Tống vào thông báo, chẳng bao lâu Tống Thất từ giữa khóm lá xanh đi tới.

Chàng trước hết nhìn tay ta, thấy không còn mang gà quay như thường lệ, mắt thoáng qua một nét thất lạc, sau đó mời ta vào phủ.

Ta khoác hoa phục màu sen nhạt, ngồi trong đình uống một ngụm trà, rạng rỡ nhìn chàng cười: “Ái khanh dường như cùng Hoa Yên có chút thân quen nhỉ?”

Tống Thất uống trà, không hề phản bác.

Ta lại hỏi: “Ái khanh cho rằng Hoa Yên thế nào?”

Chàng ngưng một lúc mới nói: “Cũng được.”

Ta đặt chén trà xuống, đổi giọng nghiêm nghị: “Ái khanh tư chất thần tiên, phàm nữ khó bề xứng đôi. Liêu vương dung nhan khuynh quốc, với khanh rất hợp. Bổn cung thấy Liêu vương một lòng với khanh, chẳng chịu về đất phong, cũng là vì khanh. Nếu khanh cùng Liêu vương kết thân, vừa thành một mối duyên đẹp, vừa để Liêu vương lưu lại kinh thành, cũng coi như giải quyết một mối lo. Trẫm có ý thành toàn…”

Chữ “giai duyên” còn chưa dứt, chén trà trên tay Tống Thất rơi xuống đất, vỡ giòn tan. Chàng sững sờ nhìn mảnh vụn, rồi nhìn ta, trong mắt ngập tràn sự không thể tin.

Ta lại đưa chàng một chén khác, thản nhiên nói: “Trẫm có ý thành toàn mối duyên này, ái khanh thấy thế nào?”

Tống Thất nghiêng đầu nhìn ta, yên lặng, rồi phất tay áo: “Không thế nào cả.”

Ta rót thêm trà, khó hiểu: “Ồ? Trước đây khanh vốn có ý với Hoa Yên, giờ chẳng phải vừa hợp sao?”

Tống Thất nhắm mắt, hàng mi dài dưới ánh dương sáng lấp lánh, cũng khiến cả người chàng thêm tĩnh lặng.

Giọng chàng thấp hẳn: “Chưa từng.”

Có lẽ sợ ta ban hôn, chàng còn bổ sung: “Ta chưa từng có ý với Hoa Yên.”

Ta khựng lại, rồi chỉ khẽ đáp: “Ồ.”

Nhưng chuyện này rốt cuộc chẳng liên quan đến ta, ta cũng chẳng hỏi thêm. Từ đó, Tống Thất một tháng trời chẳng nói gì cùng ta.

7

Mùa xuân, khoa cử mở hội, điện thí diễn ra ngay trước mặt ta. Tống Thất đi tuần ngoài địa phương, vài vị các lão phụ trách chấm, phó khảo là Hồng Lê, Thượng thư Bộ Lại.

Trong ba học sĩ, ta nhìn thấy một mỹ nam dung mạo như thần tiên hạ phàm, phong thái chẳng kém Tống Thất. Ta bất giác ngẩn người.

Tống Thất từng nói, sau này ta đứng cao nhìn xa, ắt sẽ thấy nhiều nam tử ưu tú hơn, sẽ gặp người tốt hơn. Quả thật, lời chàng cũng chẳng sai.

Trong lúc khảo hạch, ta chủ động hỏi vị mỹ nam: “Học tử tên gì? Tuổi bao nhiêu? Quê quán nơi nào?”

Mỹ nam y phục hoa lệ, giọng ôn nhuận: “Thí sinh tên Tạ Lăng, năm nay đã hành quán lễ, người thành Trường An.”

Quả nhiên biết ăn nói. Là một thiếu nữ máu nóng, ta thấy thí sinh này rất có tài.

Họ Tạ vốn thế gia vọng tộc tại kinh, triều đình nay vừa muốn thu nạp hàn môn, vừa phải giữ lòng thế gia. Thế nên, cuối cùng khi khảo quan dâng bảng vàng, ta tuyên bố: “Tạ Lăng tài hoa hơn người, kiến giải độc đáo, lần khoa cử này, Trạng nguyên là Tạ Lăng.”

Các lão đều bất mãn, Hồng Lê bước ra can gián: “Từ xưa Trạng nguyên đều lấy thực học định đoạt, bệ hạ sao lại hồ đồ như thế?”

Lá gan to thật, dám dưới triều mà phạm thượng. Nhưng ta quyết tâm làm minh quân, ngón tay khựng lại, rồi bình thản nói: “Vậy theo các khanh mà làm.”

Cuối cùng, Tạ Lăng chỉ đỗ Thám hoa, song cũng không sao, vì hoàng đế là ta. Chẳng bao lâu, ta phá lệ thăng Tạ Lăng làm Quang Lộc Tự Thiếu khanh, quan ngũ phẩm. Còn Trạng nguyên theo lệ, chỉ phong tòng lục phẩm.

Hồng Lê giận dữ, liền liên kết quần thần dâng sớ đàn hặc, chất chồng lên án trên án thư. Ngày hôm sau, ta nghiêm mặt tuyên bố: “Dù trời có sập, trẫm cũng muốn phong hắn làm Quang Lộc Tự Thiếu khanh.”

Mười ngày ồn ào, rồi cũng dần lắng xuống. Sự việc xem chừng hoang đường, cuối cùng cũng thành sự đã định, ai nói gì cũng vô ích.

Một tháng sau, Tống Thất tuần tra trở về.

Hồng Lê lại trên triều chỉ trích: “Triều đường chẳng phải chốn tuyển phi, sao có thể vì Thám hoa dung mạo hơn người mà phong chức Quang Lộc Tự Thiếu khanh? Thật sự là hồ đồ!”

Tống Thất lạnh lùng liếc ta, rồi đứng ra, giọng nặng: “Hồng Thượng thư chớ nên vô lễ. Chẳng lẽ nhãn quan của ngươi lại sáng suốt hơn thánh thượng?”

Lời Tống Thất quyền uy, cả triều đều im.

Ta: “?”

Nói thật, ta còn tưởng chàng định chê cười ta. Thế là chuyện được gói lại hoàn toàn.

Sau triều, Tống Thất riêng gặp ta. Chàng chẳng mang theo tình cảm, chỉ khuyên: “Bệ hạ hành sự, vẫn nên thận trọng hơn.”

Đêm đó, ta nằm mơ. Trong mộng, ta ngồi ở sân Tống phủ, Tống Thất sâu mắt nhìn ta hỏi: “Ta với Tạ Lăng, ai đẹp hơn?”

Ta: “Ngang tài ngang sắc.”

Chàng nhìn trăng, thần sắc chẳng vui, rồi quay sang ta: “Người phàm không biết thưởng thức.”

Vì cảm tình tri ngộ với Tạ Lăng, ta cùng hắn nhanh chóng thân cận. Dù chỉ là Thám hoa, song học vấn kiến giải vẫn tinh tường. Từ đó, số lần ta tìm hắn luận chính sự ngày một nhiều, tìm Tống Thất thì giảm dần.

Tống Thất chẳng nói lời nào, không biểu thị ý kiến.

Một ngày, Tạ Lăng vào ngự thư phòng báo cáo, mặt mày tái nhợt. Ta định triệu thái y, nhưng hắn kéo áo ta, yếu ớt, dung nhan thật khiến người thương xót: “Từ nhỏ ta vốn có chứng này, nghỉ một lúc sẽ ổn, thái y cũng vô ích.”

Ta cho bố trí cho hắn trên ghế dựa sau bình phong, lại sai Tiểu Lý đi lấy nước. Tạ Lăng vừa uống xong, ngoài cửa thái giám truyền báo: “Tống Thượng thư cầu kiến.”

Ta sắp xếp Tạ Lăng trong nội thất, rồi tuyên Tống Thất nhập kiến. Hôm ấy chúng ta luận bàn việc biên cảnh. Khuôn mặt tinh mỹ của chàng thoắt ẩn thoắt hiện trước mắt ta. Song, ta tập trung nghiêm túc, chăm chú quy hoạch, dốc lòng lo biên thùy.

Chàng nghiêng mắt nhìn, cũng nghiêm túc nghe, không ngừng góp ý. Đúng lúc chúng ta cùng hướng tầm mắt về viễn cảnh biên thùy, đột nhiên sau bình phong vang lên tiếng ghế tre kẽo kẹt.

Lời Tống Thất chợt dừng, mắt dõi vào sau bình phong.

Giọng Tạ Lăng vang ra: “Không sao đâu Bệ hạ, thần ngủ quên, trở mình thôi. Các ngài cứ tiếp tục.”

Ta: “Ồ, vậy ngươi ngủ tiếp đi.”

Ánh mắt Tống Thất kinh ngạc như muốn xuyên thủng tấm bình phong. Rồi lại xoay đầu nhìn ta, khí thế ép người, trong mắt là cả biển sâu lặng lẽ. Quả thật dọa người, ta nhìn thấy nắm tay chàng siết chặt, lồng ngực phập phồng.

Dường như có cả vạn lời muốn đàn hặc ta. Nhưng sóng to vỗ bờ, lại bị ép xuống, nuốt vào lặng thinh.

Chàng nhìn thoáng xuống đất, chẳng rõ nghĩ gì, thân khoác cẩm bào trắng, khí độ quý nhã, gương mặt nghiêng như tiên xuất trần. Cuối cùng, chẳng hé một lời.

Sau khoảng lặng dài dằng dặc, chàng tiếp tục chính sự: “Nếu nơi này điều thêm binh mã…”

Ta chẳng giải thích lấy một câu, cứ như thường bàn tiếp. Mà Tống Thất hiếm thấy chẳng tĩnh tâm, nghĩ gì chẳng biết, chỉ một chốc liền rời đi.

Thực ra ta cũng chẳng cần giải thích, bởi sự thực khác mấy đâu với điều chàng hiểu lầm. Ta dẫu sao là hoàng đế, mà là một thiếu nữ máu nóng, ta quyết định nạp phi.

Tạ Lăng dung mạo xuất chúng, ta định trước hết đưa hắn vào hậu cung.

Chương trước Chương tiếp
Loading...